SCB áp dụng mức 7,25%/năm cho kỳ hạn 13 tháng khi gửi tiết kiệm online và kỳ hạn 18 tháng trở lên cũng ở 7,35%/năm.
SaigonBank cũng vừa điều chỉnh tăng lãi suất huy động ở nhiều kỳ hạn. ACB và VietCapitalBank cũng tăng lãi suất tiết kiệm cho kỳ hạn ngắn ở mức 0,1 – 0,2%/năm.
BacABank vẫn giữ nguyên mức lãi suất cao nhất tại nhà băng này là 6,8%/năm, áp dụng cho khách hàng gửi từ 24 tháng trở lên.
Trong khi đó, MSB cũng cập nhật biểu lãi suất mới trong tháng 3/2022 và tăng nhẹ ở nhiều kỳ hạn so với tháng trước. Trong đó, lãi suất cao nhất là 6,2%/năm áp dụng khi gửi online từ 12 tháng trở lên, tăng 0,1 điểm % so với trước.
Đối với kỳ hạn 3 tháng, lãi suất tăng từ 3,8%/năm lên 4%/năm. Lãi suất kỳ hạn 6 tháng tăng 0,3 điểm % lên 5,8%/năm.
Tại OCB, ngân hàng cũng cộng thêm khoảng 0,1-0,3 điểm % cho lãi suất huy động khi gửi tại quầy. Theo đó, lãi suất kỳ hạn 36 tháng khi gửi tại phòng giao dịch là 6,35%/năm, tăng 0,2 điểm %. Ngoài ra, lãi suất kỳ hạn 12 tháng tăng từ 5,9% lên 6,1%/năm.
Techcombank tăng lãi suất tiền gửi từ 0,15 – 0,8%. Sacombank tăng lãi suất huy động ở nhiều kỳ hạn lên 0,2%. OceanBank cũng tăng lãi suất huy động từ 0,1 – 0,5% với nhiều kỳ hạn.
Trong khi đó, nhóm 4 ngân hàng thương mại nhà nước (Vietcombank, VietinBank, Agribank và BIDV) có lãi suất huy động cao nhất cũng chỉ ở mức 5,5 – 5,6%/năm.
Trước xu hướng lãi suất tiền tiết kiệm đi lên, tiền gửi của người dân tăng trở lại. Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến cuối tháng 1/2022, tổng phương tiện thanh toán toàn nền kinh tế đạt hơn 13,7 triệu tỷ đồng, tăng 2,59% so với cuối năm 2021.
Đây là tháng tiền gửi của người dân tăng mạnh nhất trong nhiều tháng trở lại đây, trong khi tiền gửi của tổ chức kinh tế sụt giảm hơn 68.000 tỷ đồng, tương đương giảm 1,21% xuống hơn 5,57 triệu tỷ đồng.
Lãi suất tiết kiệm đang tăng dần. Ảnh minh họa. |
Tổng tiền gửi tại các tổ chức tín dụng đạt hơn 10,9 triệu tỷ đồng, tăng 0,32% so với đầu năm, tương đương gần 35.000 tỷ đồng.
Đáng chú ý, tiền gửi dân cư tăng hơn 103.000 tỷ đồng chỉ trong tháng 1/2022, tương đương tăng 1,95% lên hơn 5,4 triệu tỷ đồng.
Trước đó, kể từ khi đại dịch Covid-19 xảy ra, Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất điều hành, nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng giảm chi phí đầu vào để giảm lãi suất cho vay hỗ trợ khách hàng ảnh hưởng dịch bệnh.
Cụ thể, NHNN đã liên tiếp 3 lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất với tổng mức giảm 1,5 – 2,0%/năm đối với lãi suất điều hành, giảm 0,6 – 1,0%/năm trần lãi suất tiền gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng; giảm 1,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên (hiện ở mức 4,5%/năm)
Các ngân hàng hai năm vừa qua, mức lãi suất giảm sâu đã khiến người dân tìm tới những kênh đầu tư có lợi suất cao hơn như chứng khoán hay bất động sản, thay vì gửi tiết kiệm như trước kia.
Nhưng đầu năm nay, nhiều ngân hàng đã tăng mạnh lãi suất tiết kiệm nhằm thu hút tiền nhàn rỗi trong dân, trong đó có kỳ hạn tăng đến 0,9%/năm.
Không lo thiếu vốn rẻ khi tín dụng cải thiện?
Mặc dù lãi suất tiết kiệm nhích dần, song các nhà băng cho rằng, không lo thiếu vốn giá rẻ để đẩy mạnh cho vay trong năm 2022, kể cả trước kế hoạch tăng 6-7 lần lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) trong năm nay.
Lãnh đạo Techcombank cho rằng, khi lãi suất huy động ngân hàng tăng thì về lý thuyết, người gửi thay vì đầu tư vào các tài khoản rủi ro như cổ phiếu, trái phiếu thì họ sẽ chuyển sang phần tiền gửi có kỳ hạn, an toàn hơn và lãi suất cũng tương xứng.
Và nếu lãi suất tăng thì tiền gửi không kỳ hạn (CASA) – nguồn vốn rẻ vẫn sẽ không ảnh hưởng. Bởi mục tiêu chủ yếu của CASA là để giao dịch chứ không phải để hưởng lãi suất.
Thực tế, năm 2021, CASA – vốn rẻ tại nhiều ngân hàng thương mại tiếp tục tăng cao, lập kỷ lục trong lịch sử. Một số thành viên đã đạt từ 30-40%; kỷ lục đang thuộc về Techcombank với 50,5%.
Thế nhưng, các nhà băng còn đưa ra kế hoạch tham vọng về CASA trong nhưng năm sắp tới. Đơn cử tại Techcombank, đặt mục tiêu CASA năm 2021-2025 đạt tỷ lệ 55%.
Không chỉ CASA, vùng vốn rẻ trong hoạt động ngân hàng hiện nay còn được xác định mở rộng ở các kỳ hạn như 1 tuần, 2 tuần, khi mà lãi suất ở đây cũng chỉ quanh 0,2%/năm – rất rẻ.
Vả lại, dù Fed đã tăng lãi suất, dự kiến có các bước tăng tiếp theo năm nay, song lãi suất trên thị trường quốc tế mà các NHTM Việt Nam có thể tiếp cận vẫn “rẻ” hơn nhiều so với trong nước.
Tất nhiên ở đây phụ thuộc vào sự ổn định của tỷ giá – điểm mà Ngân hàng Nhà nước vẫn đang cho thấy sự chắc tay những năm gần đây và triển vọng tiếp tục giữ được ổn định tương đối trong năm nay.
Tuy nhiên, trong báo cáo thị trường tiền tệ mới đây, Công ty Chứng khoán SSI duy trì quan điểm mặt bằng lãi suất trên thị trường đã tạo đáy và kỳ vọng nhích tăng dần về cuối năm. Mức tăng lãi suất sẽ phụ thuộc nhiều vào khả năng hồi phục của nền kinh tế và diễn biến của lạm phát.
Bộ phận phân tích cho SSI cũng cho rằng, nhiều khả năng lãi suất đang thiết lập mặt bằng mới, cao hơn nhiều so với bình quân trong năm 2021 dưới áp lực của tín dụng hồi phục trong năm 2022.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, 2 tháng đầu năm, thị trường tiền tệ, tín dụng tương đối ổn định. Đến ngày 25/2/2022, tín dụng tăng 2,52% (VND tăng 2,34%, ngoại tệ tăng 3,96%).
Trước đó, NHNN cho biết tín dụng cuối tháng 1 tăng 2,74%, như vậy tín dụng trong tháng 2/2021 đã giảm nhẹ.
Chúng khoán BVSC cũng dự báo, tăng trưởng tiền gửi dân cư vẫn thấp trong năm nay khi người dân có nhiều sự lựa chọn kênh đầu tư có lợi suất cao hơn như chứng khoán hay bất động sản.
Với áp lực lạm phát ngày càng hiện hữu, mặt bằng lãi suất đã chạm đáy và tốc độ tăng lãi suất trong thời gian tới sẽ phụ thuộc vào tốc độ phục hồi của nền kinh tế và lạm phát.
Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 của Chính phủ.
Về lãi suất, định hướng của Ngân hàng Nhà nước là điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ, phối hợp đồng bộ với các công cụ chính sách tiền tệ khác, chỉ đạo các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí hoạt động để phấn đấu giảm lãi suất cho vay khoảng 0,5% – 1% trong 2 năm 2022 và 2023, nhất là đối với lĩnh vực ưu tiên.
Về tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước sẽ điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.