Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục là 3 thị trường xuất khẩu lớn nhất của nông lâm thủy sản Việt Nam
Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 5/2024 đạt 5,06 tỷ USD, tăng 11,2% so với T5/2023; trong đó, nông sản chính 2,73 tỷ USD (tăng 14,3%), lâm sản 1,35 tỷ USD (tăng 17,9%), chăn nuôi 45,8 triệu USD (tăng 10,2%). Riêng thủy sản 780 triệu USD (giảm 3,5%) và đầu vào sản xuất 153 triệu USD (giảm 6,9%).
Tính chung 5 tháng, hầu hết các nhóm hàng đều tăng nên kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng, đạt 24,14 tỷ USD. Đóng góp vào kết quả này có: Nông sản 13,11 tỷ USD, tăng 27,7%; lâm sản 6,58 tỷ USD, tăng 22,7%; thủy sản 3,5 tỷ USD, tăng 3,6%; chăn nuôi 199 triệu USD, tăng 5,6%. Riêng đầu vào sản xuất 756 triệu USD, giảm 1,3%.
Trong 5 tháng đầu năm, xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng nông lâm thủy sản chủ lực đều cao hơn cùng kỳ năm trước, như: Gỗ và sản phẩm gỗ 6,14 tỷ USD (tăng 23,6%); Cà phê 2,9 tỷ USD (tăng 44,1% với lượng 833 nghìn tấn, giảm 3,9%); Gạo 2,65 tỷ USD (tăng 38,2% với lượng 4,15 triệu tấn, tăng 14,7%); Điều 1,55 tỷ USD (tăng 19,3% với lượng 288 nghìn tấn, tăng 30,6%); Rau quả 2,59 tỷ USD (tăng 28,1%); Tôm 1,3 tỷ USD (tăng 7,5%).
Đơn giá xuất khẩu bình quân 5 tháng của nhiều mặt hàng tăng như: Gạo 638 USD/tấn, tăng 20,5%; cà phê 3.482 USD/ tấn, tăng 49,9%, cao su 1.504 USD/ tấn, tăng 8,8%; hạt tiêu 4.308 USD/ tấn, tăng 39,3%. Riêng hạt điều 5.378 USD/tấn, giảm 8,6%; chè 1.656 USD/ tấn, giảm 0,8%…
Xét theo thị trường, giá trị xuất khẩu vào các thị trường đều tăng. Trong đó xuất khẩu sang Châu Á đạt 11,31 tỷ USD (tăng 17,5%); Châu Mỹ 5,4 tỷ USD (tăng 23,1%); Châu Âu 3,2 tỷ USD (tăng 39,4%); Châu Phi 459 triệu USD (tăng 26,1%) và Châu Đại Dương 341 triệu USD (tăng 24,8%). Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục là 3 thị trường xuất khẩu lớn nhất; giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm 20,6%, tăng 23,9%; Trung Quốc chiếm 19,2%, tăng 8,6% và Nhật Bản chiếm 6,7%, tăng 6,6%.
Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu nông lâm thủy sản trong 5 tháng năm 2024 đạt 17,61 tỷ USD, tăng 10,1% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, nông sản 10,9 tỷ USD, tăng 10,1%; sản phẩm chăn nuôi 1,4 tỷ USD, tăng 3,4%; thuỷ sản 992 triệu USD, giảm 5,6%; lâm sản 1.041 triệu USD, tăng 17,1%; đầu vào sản xuất 3,2 tỷ USD, tăng 17,5%; muối 16,1 triệu USD, tăng 4,9%.
Giá trị nhập khẩu nông lâm thủy sản từ châu Á 5,47 tỷ USD, tăng 11,8%; châu Mỹ 4,5 tỷ USD, tăng 54,8%; châu Đại Dương 726 triệu USD, giảm 35,8%; châu Âu 769 triệu USD, giảm 48,3% và Châu Phi 273 triệu USD, giảm 46,2%.
Tận dụng các FTA, đẩy mạnh xuất khẩu nông lâm thủy sản chủ lực
Dự báo, các thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn của Việt Nam đang dần tăng trưởng trở lại như: Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực châu Á, Hoa Kỳ… Tuy nhiên, kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức cả cung và cầu hàng nông sản, vật tư; các cuộc xung đột quân sự gia tăng và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt… làm đứt gãy chuỗi cung ứng và tăng chi phí vận chuyển. Nhiều quốc gia thực thi chính sách bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước; đẩy mạnh sản xuất nông sản để chủ động nguồn cung, ứng phó với tác động tiêu cực của El Nino, La Nina.
Trong nước các mặt hàng rau củ quả có nguồn cung dồi dào, tương đối ổn định, nhiều loại nông sản đang vào vụ thu hoạch. Tuy nhiên, thời tiết diễn biến bất thường, xâm nhập mặn tại các tỉnh Nam bộ, đặc biệt là ĐBSCL, nguy cơ cháy rừng tăng cao, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng phát ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục phối hợp với Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan liên quan xử lý các vấn đề thị trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu nông sản, thủy sản; triển khai các Đề án thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản sang các thị trường: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU; mở cửa các thị trường mới, còn nhiều tiềm năng như: các nước Hồi giáo Halal, Trung Đông, Châu Phi… Tận dụng các FTA, đặc biệt là Hiệp định CPTPP, EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản chủ lực, hỗ trợ doanh nghiệp ký kết đơn hàng xuất khẩu mới. Phối hợp hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, tổ chức các hoạt động phổ biến thông tin, quy định thị trường và thị hiếu tiêu dùng, hỗ trợ kết nối tiêu thụ thông qua hệ thống tham tán thương mại, nông nghiệp tại các thị trường, các chuỗi phân phối bán lẻ trong nước, các sàn thương mại điện tử…
Nguồn: Tapchicongthuong