Trong đó, với việc mở cửa thị trường và gia nhập các Hiệp định thương mại tự do, DNNVV Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Điều này đặt áp lực lớn lên khả năng cạnh tranh, khả năng tạo ra giá trị gia tăng và đổi mới để tồn tại và phát triển.
Do đó, DNNVV thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn và nguồn lực để đầu tư và mở rộng hoạt động kinh doanh. Sự thiếu hụt vốn có thể giới hạn khả năng nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, tăng cường năng lực cạnh tranh và mở rộng quy mô kinh doanh.
Hiện nay, nhiều DNNVV ở Việt Nam vẫn đang gặp khó khăn trong việc chuyên môn hóa và nâng cao kỹ năng quản lý. Sự thiếu hụt này có thể làm giảm hiệu quả hoạt động, tăng chi phí và giới hạn khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh thay đổi liên tục.
Bên canh nhữn thách thức nêu trên, Việt Nam có dân số hơn 96 triệu người, với nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng. Điều này tạo ra một cơ hội lớn cho DNNVV tại Việt Nam để phát triển và mở rộng thị trường trong nước.
Từ đó, Chính phủ và các tổ chức quốc tế đã thúc đẩy việc phát triển DNNVV thông qua việc cung cấp các chính sách thuận lợi, hỗ trợ tài chính, đào tạo và tư vấn. Điều này cung cấp một cơ hội để DNNVV tận dụng những lợi thế này để nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng quy mô kinh doanh.
Việc hội nhập vào các thị trường quốc tế mở ra cơ hội xuất khẩu và mở rộng thị trường cho DNNVV Việt Nam. Các Hiệp định thương mại tự do và quyền ưu đãi thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia khác tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận các thị trường mới.
Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số đã mở ra cơ hội cho DNNVV Việt Nam để thúc đẩy hiệu quả hoạt động, tăng cường sự cạnh tranh và tạo ra sản phẩm và dịch vụ đột phá. Sự đổi mới trong quy trình sản xuất, tiếp thị và quản lý có thể giúp DNNVV tận dụng cơ hội này và tăng cường hiệu suất kinh doanh.
Tóm lại, cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, cũng có nhiều cơ hội đáng kể để phát triển và mở rộng quy mô kinh doanh. Để tận dụng cơ hội này, DNNVV cần tập trung vào chuyên môn hóa, nâng cao kỹ năng quản lý và đổi mới. Đồng thời, việc hưởng ứng và tận dụng sự hỗ trợ từ Chính phủ, các tổ chức và sự phát triển công nghệ sẽ giúp DNNVV Việt Nam vươn lên trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Theo ông Trần Duy Đông – Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn đang khó khăn khi tham gia vào thuế giá trị khu vực và toàn cầu do năng lực cạnh tranh hạn chế. Trong đó có ba nguyên nhân chính: Thứ nhất, doanh nghiệp còn nhỏ nên gặp vấn đề trong huy động nguồn lực, chưa có chiến lược đầu tư dài hạn và chưa dám mạo hiểm đầu tư phát triển. Thứ hai, các doanh nghiệp nước ta còn hạn chế trong việc hợp tác để trở thành những đối tác lâu dài hướng tới mục tiêu phát triển chung. Thứ ba, tầm nhìn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn ngắn hạn, sự liên kết trong khu vực còn rời rạc làm giảm hiệu quả xuất khẩu. Đây là bài toán Chính phủ luôn trăn trở, làm sao để tăng cường và thúc đẩy liên kết giữa khu vực FBI, doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp tư nhân trong nước. Trước những cơ hội và thách thức EVFTA mang lại, Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có những kế hoạch cụ thể để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong khi đó, TS. Nguyễn Minh Thảo – Trưởng Ban nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cho biết: DNNVV hiện nay chiếm gần 98% số lượng doanh nghiệp và đóng góp 40% GDP cả nước. Với sự đóng góp không nhỏ, DNNVV ngày càng có nhiều cơ hội phát triển khi có sự tham gia của các FTA hay Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và sự xuất hiện của các mô hình kinh doanh mới. Tuy nhiên, hầu hết quy mô các doanh nghiệp chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ, dẫn đến hiệu quả kinh doanh và năng suất lao động thấp.
Nguồn: doanhnghiephoinhap.vn